Người Nghệ với Hoàng Sa - Trường Sa

Thứ bảy - 14/03/2015 14:47
Người Nghệ với Hoàng Sa - Trường Sa Người Nghệ với Hoàng Sa - Trường Sa

Dân trí Với những cứ liệu lịch sử đã được thu thập qua các tấm bản đồ, người dân xứ Nghệ đã góp phần khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo này là không thể bàn cải và không thể thay đổi. Hoàng Sa – Trường Sa là máu thịt của Việt Nam!

Trong nghìn năm mở mangbờ cõi, bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa đãlưu dấu ấn của nhiều người con quê hương xứ Nghệ.

1. Trong cuộc hải chiếnGạc Ma ngày 14/3/1988, 64 người con ưu tú của dân tộc Việt Nam đã nằm lại ngoàibiển khơi, lấy máu thịt của mình để khẳng định thêm một lần nữa chủ quyền củaViệt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Trong 64 người con ưu tú đó có 8 ngườicon quê hương Nghệ An. Họ - tuổi đời còn rất trẻ đã không tiếc thân mình, chiếnđấu đến hơi thở cuối cùng vì sự toàn vẹn lãnh thổ của dải đất hình chữ S thânthương.

Người Nghệ với Hoàng Sa - Trường Sa 1
Liệt sỹ Trần Văn Minh - một người con Nghệ An đã ngã xuống trong cuộc chiến bảo vệ đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.

Hòa bình rồi nhưng con dân nước Việt vẫn phải ngã xuốngcho sự toàn vẹn lãnh thổ được đánh đổi bằng những máu xương của thế hệ cha ông. Ngày18/1/2014, Trung úy Phan Văn Hạnh (SN 1980, quê xã Vĩnh Thành, Yên Thành, Nghệ An) ngãxuống khi đang làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ đảo Tốc Tan C (quần đảo TrườngSa). Tháng 10/2014, một người con xứ Nghệ khác là thượng úy Dương Văn Bắc (xãNghĩa Dũng, Tân Kỳ, Nghệ An) hi sinh ở nhà giàn DK 1. Đó chỉ là số ít trong số hàngchục, hàng trăm người con đã ngã xuống nơi đầu sóng ngọn gió. Họ đã sống –chiến đấu và ngã xuống, giữa thời chiến hay thời bình, chỉ vì một lý tưởng caonhất: Bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ mà cha ông đã xác lập và giữ gìn suốt bao đờinay.

2. Ngược thời gian, trở vềcách đây vài thế kỷ, dấu ấn của người Nghệ đã lưu lại trên hai quần đảo này. Nónhư một bằng chứng, một cứ liệu lịch sử, một bẳng chứng đanh thép để khẳng định:Việt Nam có đầy đủ bằng chứng để chúng minh chủ quyền của mình đối với hai quầnđảo này. Những bằng chứng được xác lập từ lâu đời và không ai có thể chối cãiđược.

Hoàng Sa và Trường Sa với tên gọi chung là “Bãi cát vàng” là hai quần đảo nằm trênbiển Đông thuộc chủ quyền nước ta trong suốt hơn 600 năm lịch sử. Bởi theo cáctài liệu chính thống thì vua Lê Thánh Tông đã cho vẽ bộ bản đồ toàn quốc mangtên “Hồng Đức bản đồ” vào năm CanhTuất niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490), trong đó bao gồm các quần đảo ngoài biểnĐông. Như vậy, Hoàng Sa - Trường Sa đã được nhà nước phong kiến Việt Nam đưavào bản đồ từ cuối thế kỷ XV.

Người Nghệ với Hoàng Sa - Trường Sa 2
Lính Nghệ ở Trường Sa (ảnh Hoàng Trần).

Trong nhiều bộ thư tịch của nước ta viết về hai quần đảo HoàngSa, Trường Sa dưới hai triều đại Lê và Nguyễn thì số tác phẩm do người Nghệ biên soạn (hoặc tham gia biên soạn) chiếm số lượngrất lớn.

Trong đó phải kể đến bộ “Thiên Nam Tứ chí lộ đồthưcủa Đỗ Bá Công Đạo – một người con xã Thanh Mai, huyện Thanh Chương. Trongkhoảng những năm Chính Hòa (1680 -1705), Đỗ Bá Công Đạo giả dạng lái buôn dongthuyền vượt biển vào Nam. Khi đã khảo sát kĩ càng, ông vẽ bản đồ các nơi ở xứĐàng Trong. Các bản đồ của ông được tập hợp trong 4 tập của “Tứ chí lộ đồ”.

Trong đó, "Bãi cátvàng” được ghi chép một cách cụ thể như sau: ...Giữa biển có một quần đảo dài 400 lý và rộng 200 lý có tên là Bãi cát vàng nhô lên từ đáy biển hướng về phía duyên hải giữa hai cảng ĐạiChiêm và Sa Vinh. Vào mùa mưa Tây Nam, các thuyền buôn từ các quốc gia khácnhau qua lại gần bờ thường bị đắm ở các khu vực quần đảo này... Mỗi năm trongsuốt tháng cuối cùng của mùa đông, các chúa Nguyễn đều phái tới đảo này một hạmđội gồm 18 tàu buồm để vớt các chiếc tàu đắm… Từ cảng Đại Chiêm phải đi mất mộtngày rưỡi mới đến quần đảo này, trong khi chỉ mất có một ngày nếu đi từ SaKỳ...” (*). Như vậy có thể khẳng định, 2 quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa thuộcquyền quản lý của Việt Nam từ rất lâu trước những năm 1680.

Người Nghệ với Hoàng Sa - Trường Sa 3
Tấm bản đồ do Đỗ Bá Công Đạo vẽ từ thế kỷ XVII với dòng chữ "Bãi Cát vàng" - biểu thị quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa do Chúa Nguyễn quản lý.

Trong cuốn “ĐạiViệt sử kỳ tục biên” do 7 vị đại thần biên soạn dưới lệnh của Chúa TrịnhSâm thì người làm toản tu cho bộ sử này cũng là một đại thần quê Nghệ An – PhạmNguyễn Du. Trong sự nghiệp quan trường, Hoàng giáp Phạm Nguyễn Du (quê xã NghiXuân, Nghi Lộc) được thăng tới chức Đông các đại học sỹ và được Chúa Trịnh Sâmcho tham gia vào việc biên soạn sử. Trong bộ “Đại Việt sử ký tục biên” do ông cùng6 vị đại thần khác biên soạn có phần chép như sau: “...trong đảo có Bãi cát vàng dài ước 30 dặm, bãi phẳng nước trong. Đảo cóvô số tổ yến, ở bãi cát lại có ốc vằn, tục gọi là ốc tai voi, ốc xà cừ, ốchương và hải trùng, hải sâm, đồi mồi... Đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy ngườixã An Vĩnh sung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật...”.

Trong bộ sách “Đại Nam thực lục"ghi chép sự kiện lịch sử từ 9 đời Chúa Nguyễn đến hết đời vua Khải Địnhcũng có sự tham gia đóng góp của nhiều sử quan người Nghệ An như Nguyễn TrungMậu, Cao Xuân Dục và con trai Cao Xuân Tiếu (đều người Diễn Châu). Phần Tiềnbiên của bộ sách này ghi rõ: “...Tháng7 mùa thu năm Giáp Tuất (1753), dân đội Hoàng Sa gặp gió to, dạt vào hải phậnQuỳnh Châu thuộc nhà Thanh. Quan Tổng đốc nhà Thanh chu cấp đầy đủ rồi đưa về, Chúasai viết thư gửi qua.

Ngoài biển xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi có130 cồn cát, cách xa hoặc một ngày đường hoặc vài trống canh, chiều dài khôngbiết tới mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý Trường Sa Châu, trên có giếng nướcngọt, sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, giải, ba ba. Hồi quốc sơ đầu triềuNguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 người lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hàng năm cứ đếntháng 3 cưỡi thuyền ra đảo, ba ngày ba đêm tới nơi, thu lượm hóa vật, đến tháng8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải mộ dân Tư Chính, Bình Cố hoặc xã Cảnh Dươngsung vào, được lệnh cưỡi thuyền nhỏ ra các đảo Côn Lôn ở Bắc Hải thu lượm, cũngdo đội Hoàng Sa cai quản luôn”.

Người Nghệ với Hoàng Sa - Trường Sa 4
Cán bộ, chiến sỹ là người Nghệ An tại đảo Đá Tây C đón khách từ đất liền ta thăm (ảnh Hoàng Trần).

Phần “Chính biên”ghi chép cụ thể vàchi tiết hơn: “...Năm Bính Tý, niên hiệuGia Long thứ 15 (1816), vua ra lệnh cho thủy quân đi thuyền ra đảo Hoàng Sa đểkhám xét và đo đạc hải trình”. “Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Minh Mạng thứ 15(1834), sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sỹ cùng thủy quân hơn 20 người đithuyền tới đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản đồ”.

Như vậy, trong bộ chính sử của nhà nước, HoàngSa, Trường Sa là một đơn vị hành chính cụ thể trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Vềviệc vẽ bản đồ đối với quần đảo này được ghi rõ trong phần “Chính biên”: “Đảo Hoàng Sa thuộc vùng biển nước ta, đây lànơi hiểm yếu, trước đã từng sai vẽ bản đồ, nhưng vì hình thể xa rộng nên chỉmới vẽ được một số chỗ, vả lại cũng chưa biết làm thế nào cho rõ. Hàng nămthường phái người đi khắp cả để biết tường tận đường biển. Kể từ năm nay về saumỗi khi đến hạ tuần tháng giêng chọn phái thủy quân đội mũ cùng giám thành đápmột chiếc thuyền nhằm thượng tuần tháng 2 đến Quảng Ngãi, giao cho 2 tỉnh QuảngNgãi và Bình Định thuê 4 chiếc thuyền của dân, khiến họ dẫn đường ra đảo Hoàng Sa....

Từ các tư liệunày, vua Minh Mạng sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền mangtheo mười cái bài gỗ ra Hoàng Sa dựng bài lên làm dấu. Mặt bài khắc chữ “NămMinh Mạng thứ 17, Bính Thân (1836), Thủy đội Trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vânglệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ.”

Trong bộ“Đại Nam nhất thống chí” do Cao Xuân Dụclàm tổng tài phụ trách việc biên soạn, quyển chép về tỉnh Quảng Ngãi cóghi: “...Trên đảo có bãi Trường Sakéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục danh là Vạn Lý Trường Sa...”. Trong“Quốc triều chính biên” (cũng do CaoXuân Dục làm tổng tài phụ trách biên soạn) ghi chép: “...Dựng đền thờ Thần Hoàng Sa ở Quảng Ngãi. Hải phận Hoàng Sa ở QuảngNgãi có một cồn cát trắng, nơi ấy cây cối xum xuê, tươi tốt. Ở trong cồn cát cómột cái giếng. Phía Tây Nam có một ngôi miếu cổ, bia đá có khắc 4 chữ “Vạn lýba bình” (muộn dặm sóng yên). Cồn cát trắng kia có tên là Phật Tự Sơn (núi chùaPhật)... Ra lệnh xây miếu và dựng bia chỗ này, trước miếu có xây bình phong...”.

Không chỉ xác lập chủ quyền bằng việc cử người ra làm dấu hay cho xây dựng đềnthờ mà triều Nguyễn còn cử người ra cứu tàu buôn nước Anh mắt cạn tại bãi HoàngSa vào tháng 12 năm Bính Thân. Ngoài ra Vua còn sai người tìm nơi sở, cấp tiềngạo cho đoàn thủy thủ gồm 90 người của tàu buôn nước Anh đồng thời cho ngườidẫn đường về nước.

Cùng với nhiều cứ liệu lịch sửkhác, người Nghệ đã góp phần khẳng định chân lý: Trường Sa – Hoàng Sa là máuthịt của Việt Nam! Cùng với cán bộ, chiến sỹ, nhân dân cả nước, người dân NghệAn sẵn sàng hiến dâng máu của mình để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyềnbiển đảo Việt Nam!

Hoàng Lam

Nguồn tin: Báo điện tử Dân Trí


 
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

 

Những tin cũ hơn

Bình Luận Facebook
Showbiz
Tin thế giới
Thống kê truy cập
  •   Đang truy cập 197
  •   Máy chủ tìm kiếm 7
  •   Khách viếng thăm 190
 
  •   Hôm nay 21,951
  •   Tháng hiện tại 282,013
  •   Tổng lượt truy cập 133,365,761